Truyện ma miền Tây QUỶ Ở GÒ MẢ
Trong buổi tối phát sóng chuyện ngày hôm nay, chúng ta sẽ gặp lại tập truyện ngắn rất là hay Đa phần là chuyện miền Tây sông nước, thủy quái trên sông Tiền. Quỷ sứ miền quê ngoại, và Ngày hôm nay chúng ta sẽ quay trở lại với Quỹ ở Gò Mã.
Mời quý bà con cùng lắng nghe.
Trời sập tối lẹ hơn mỗi bữa Mây kéo rạp rạp như cái mền sần. Gió trích mấy đợt qua cánh đồng bên rạch bà Nhu. nghe ràng rạc. Không gian âm âm, lạnh như nước giếng mới gầu. Ông Hai Nhót dắt chiếc xe đạp cà tàng vô sân. Lưng áo dính đẫm mồ hôi, ướt tới tận lưng quần. Cái nghề bốc mộ theo ông hơn ba chục năm. Quen mặt với xương trắng, đất đen, mà người ở sớm vẫn nhìn ông như người biết hết chuyện trên đời. Ai bị chôn ở đất dữ thì cứ kiếm ông Hai. Ông bóc mả, coi đất hay dữ lắm. Bữa nay, ông Hai đi đào mả ở xã ngoài. Đường xa, xe lại muốn rụng từng khúc. Tới chừng về được nhà thì cũng khuya lơ khuya lắc. Cổng kẹo kẹt, con mèo nằm dưới trỏng cũng chẳng buồn ngóc đầu. Ông Hai ngồi bệt xuống bậc thềm, chưa vội vô nhà. Trút cối thuốc rê nhồi nát ra, dấn đại một điếu. Châm lửa, kéo một hơi dài. Khói thuốc bay lên, quẩn quanh trước mặt, rồi tản ra như người ta thở hết mỏi mệt. Thở luôn nỗi cô độc không ai chịu nghe. Ông Hai sống một mình, lâu rồi. Không vợ, không con. Không phải tại ông xấu số hay dữ tướng, mà cái nghề của ông. người ta nghe đã ớn. Bốc mộ, tắm rửa xương cốt, xếp sọ người chết như xếp chén trong bếp, ai dám nằm chung giường chứ. Ông cũng quen rồi. Mỗi tối tự ăn cơm, tự nói vài câu cho đỡ trống. Tự nằm, rồi tự trở mình trong giấc mơ, không có người vợ nằm bên cạnh. Tối nay, ông ngồi lâu hơn mọi khi. Khói thuốc bám vào da và tóc. Mắt ông cay không rõ vì khói hay vì mấy thứ chẳng ai nói thành lời. Rồi ông đứng dậy, chậm chạp đẩy cánh cửa vô nhà. Một ngày nữa lại trôi qua, lặng lẽ như khúc sông cạn phía sau nhà. Trời vừa hửng sáng. Mặt người còn lờ mờ trong sương. Sớm đã rộn ràng tiếng rao. Giọng mấy bà bán bánh cam, bánh bò lanh lảnh từ đầu hẻm dội vô, làm bụng mấy đứa nhỏ trong nhà réo lên từng hồi. Hơi người, hơi bánh, hơi nắng sớm chen nhau tràn trề đầu ngõ. Góc cây cong ở đầu xóm, có mấy người hay ngồi quây tụ. Khói cà phê với khói thuốc lá quyện nhau, tỏa mùi đắng chát. Ông Hai Nhót ngồi đó. Cái bóng quen thuộc, tới độ người ta không thấy ổng thì còn tưởng bữa nay trời trở dông.
Bữa nay, ổng mặc cái áo ba lỗ ngả màu cháo lòng, cái quần kaki cũ xệ gối. Tay quậy nhẹ ly cà phê đen đặc. Bên cạnh ổng là ông Cụ Năm người cao kiều, đội cái nón lá méo xẹo, nghiêng đầu hỏi, giọng trầm trầm: Bữa nay, có ai kêu mày đi bốc mả nữa không hả. Dạ. không biết nữa ông Năm ơi. Bữa qua mới bốc cái mả hai mươi mấy năm rồi, mà nói thiệt con còn thấy nhợn tới giờ. À, mả kết hả, Không phải. Mả kết con nhìn cái là biết liền. Ai dám đụng. Mả này là mả thường, mà xui cái là nó ngập nước lâu năm. người nhà nói chôn lâu rồi, thịt thà gì chắc cũng không còn. Con nghe vậy khoái lắm, đòi hai triệu. Họ còn chê mắc, mà con năn nỉ một hồi thì họ cũng xuôi theo. Ông giật một chút, nhắp miếng cà phê rồi kể tiếp: Mả hả, tới hồi đào lên á… Má ơi, cái xác còn nguyên si luôn, Da thịt còn dính đầy, thúi rình, Con muốn bỏ chạy luôn, mà lỡ nhận tiền rồi đâu dám xù. Đành đưa tay rốt từng lớp thịt, tuốt từng cái sợi gân. Thịt nó rã ra như chao trộn mắm ruốc vậy đó ông Năm, Nó dính vô tay, cái mùi tanh ngấm thẳng vô óc luôn, Ông Năm rùng mình, chép miệng nghe cái “ựt”, mặt xám ngoét: Thôi thôi thôi. Tao nghe mà muốn ói theo đây nè. Thiệt, mày gan ghê đó. Tao mà là mày á, chắc bỏ chạy từ lúc mở nắp hòm rồi Ông Hai cười khan, tay vỗ nhẹ vô ngực như vỗ cho cái gan của mình nó tỉnh: Hơ hơ… chắc tại làm riết rồi không còn biết sợ. Tâm lý nó mòn như đá cuội. Trơn láng hết rồi ông ơi. Hai người cứ vậy ngồi nói hoài. Chuyện xác chết.
Rồi lò cò sang chuyện gạo lên giá. Chuyện con thằng Tám đòi bỏ học lên Sài Gòn làm. Chuyện cái lỗ mới làm, mưa xuống là ngập tới rún.
Tới hồi nắng nhích lên khỏi tàn cây công, bóng mát trút trơ góc. Ly cà phê cạn đáy. Hai người bạn già mới phủi quần đứng lên. Ai về nhà nấy. Không hẹn, nhưng mai lại gặp. Chắc vậy. Vì sáng sớm ở xóm này mà thiếu họ thì thấy trống lắm.
Cùng lúc đó, trong căn nhà lợp lá dừa nước của ông Bảy Phến, nằm cuối con hẻm nhỏ, vắng tiếng gà, vắng cả tiếng quạt mo.
Ông Bảy nằm nghiêng người trên cái võng cũ, mắt vô hai cây cột, chân đong đưa lơ mơ. Mắt thả hồn lên mái lá.
Bà Liên ngồi sát bên, mắt còn dính chút hoang mang từ cơn mộng lúc khuya, giọng nói như thì thào, kể lại cho chồng mình nghe: Ông nè đêm qua má hiện về, đứng khóc ở đầu giường á. Kêu mình phải dời mộ má đi chỗ khác. Má nói chỗ nằm bị ngập nước, lươn với cá trê chui vô rĩa xương, đau lắm á! Má chết rồi, đã mười năm rồi, thịt thà còn cái gì đâu mà cá rĩa với lươn ăn
Bà chỉ dõi mơ mộng tầm bậy, Khổ quá Ông không tin có lươn thì cũng phải tin cái vụ mộ bị ngập nước chớ Bộ tôi rảnh à, đi dựng chuyện làm chi
Ờ thì. Thì cái gì mà thì Tôi nói ông Hai nha, người chết lâu mà còn hiện về, là chắc chắn có điềm á Ông liệu hồn mà nghe lời má đi, chớ để trễ tràng rồi hối không kịp à. Tôi là con dâu mà còn biết lo, ông thân ruột trà, không lẽ dỡ hơn tôi sao?
nghe vợ dọa tới mức lạnh gáy, ông Bảy đâm ngồi dậy, mồ hôi rịn ra hai bên thái dương. Ông nhìn vợ, giọng xuôi theo:
Thôi, thôi, được rồi. Mệt bà quá. Bà qua nhà anh Hai Nhót kêu ảnh bóc mộ dùm đi.
Ờ, chờ đúng câu đó của ông á Thôi, tôi đi liền. Sớm bữa nào, má đỡ khổ bữa đó
Nói xong, bà đứng dậy bước nhanh ra khỏi nhà, đôi dép lẹp xẹp trên nền đất ẩm, bỏ lại sau lưng một người đàn ông vẫn còn lây quay giữa hai làn ranh của tin và ngờ.
Ngồi bên mé sông Nương, cách nhà chỉ một đoạn ngắn, ông Hai Nhót chống cằm, bứt từng cọng cỏ héo, xe qua xe lại cho quên đi cái quạnh vắng giữa trưa.
Gió không thổi mạnh, chỉ đủ đưa về tiếng chén đũa hay tiếng nói cười râm ran từ đâu trong xóm vọng lại. người ta ăn cơm trưa, còn ông thì ngồi đây, bụng không đói nhưng mà lòng trống quắc.
Có người đi ngang, thấy ông lủi thủi một mình, chỉ lắc đầu khe khẽ cái lắc đầu kiểu như người hiểu chuyện nhưng không dám nói, sợ chạm vô nỗi buồn của người ta.
Bà con trong xóm, nhất là mấy bà già hay tụ tập ở đầu ngõ mỗi chiều, cũng thường rù rì: Phải chi thằng Hai á, nó bỏ cái nghề bốc mả, chắc giờ có vợ con rồi ha.
Ông Hai nghe riết quen tai, quen như quen với cái áo sờn vai biết cũ mà giặt mặc hoài. Cũng buồn, nhưng không biết giận ai, cũng chẳng biết cãi làm chi. Lời thiên hạ như nước qua cầu, mình có tai cũng không dớt hết được.
Thôi kệ. Làm điều mình thấy đúng là được. Ông hay nghĩ vậy đó. Giúp người chết có chỗ yên thân, coi như cũng góp một phần nhỏ vô yên ổn cái cõi này.
Gió thổi ngang, rối tóc ông. Làm cái nghề người ta sợ, sống giữa đời như đứng lùi một bước, cứ như ông là người ngoài của cái xóm này. Yêu thương thì dễ nói, chớ sống chung, chấp nhận mới là chuyện khó.
Đang lim dim thì có tiếng gọi phía sau, làm ông giật mình:
Anh hai, Trời đất ơi, Em kiếm anh dữ lắm Té ra anh chốn đây hả Ờ. ừ. Liên hả, Có chuyện gì mà kiếm anh gấp vậy Dạ. nhờ anh qua coi giùm cái mả của má em. Đêm qua em nằm mơ thấy ba má về. Bà than lạnh, nói cái mả bị ngập nước.
Ờ, vậy hả, Thương dì Chín quá ha. Để chiều anh qua anh coi. Nếu cần thì mình làm luôn trong ngày, đặng cho yên cái thân của dì.
Cảm ơn anh nhiều lắm nha. Thôi, em về.
Bà quay lưng đi, chiếc nón lắc lư trên đầu. Ông Hai nhìn theo, thấy cái cười của bà hiền ghê. Cái cười mộc mạc mà làm cho lòng người dịu lại như mưa đầu mùa. Trần đó thôi, mà khóe môi của ông cong lên. Một chút xíu thôi. Nhẹ như sương.
Ở cái xóm nhỏ này, giữa tiếng đời ồn ào, vẫn có người gọi tên ông bằng giọng tin tưởng. Vậy là đủ rồi.
Phía sau nhà ông Bảy Phến, cái mộ xi măng của bà Chín nằm đơn độc bên bụi bông trang đỏ rực. Màu đỏ ấy gần như chói vào mắt giữa nền đất khô cằn, nứt nẻ như ruộng bỏ hoang mùa cạn.
Vợ chồng ông Bảy đứng lặng trước mộ, nhìn nhau rồi chặc lưỡi, vẻ bất lực. Bà Liên ngó ông Hai, giọng than vãn:
Anh Hai coi, đất đai khô nẻ như vậy mà má em cứ nói bị ngập nước hoài. Sao lạ vậy.
nhìn đất nứt toát, ông lẩm bẩm:Chắc là nước ngầm từ con kênh gần đây. Nó rịn vô rồi đọng lại. Nhưng mà thôi, đào lên là biết cả. Rồi, nhang đèn đồ cúng chuẩn bị xong hết chưa?
Dạ rồi anh, để tôi vô đem cái bàn với con gà luộc ra.
Ông Bảy tất tả vô trong. Lát sau mang ra cái bàn nhựa đỏ, đặt mâm gà luộc, chén muối tiêu với dĩa trái cây lên. Ông Hai vái ba lạy, đốt nhang lầm rầm khấn vái. Khi nhang cháy đến nửa, ông quay mặt vô phía bụi tre sau hè, gọi lớn:
Nè, cúng xong rồi mấy cậu ơi, vô làm việc thôi
Ba thanh niên đang ngồi dưới tán tre nghe ông gọi thì đứng dậy. người vác cuốc, người cầm búa, đều là người ông Hai mướn tới để tháo phần mộ cũ của bà Chính. Từng nhát búa giáng lên chát chúa, như tiếng trống gõ xuống âm ti. Chim chóc trong lùm cây bay tán loạn. Xi măng nứt toác, từng mảng văng ra như da thịt bị lột. tiếng đá dở khiến cho người ta nghe lạnh gáy. Bà Liên đứng sau, tay run run cầm bó nhang đã tắt từ lúc nào. Ánh mắt dán chặt vào từng nhát cuốc, như sợ thứ gì đó sắp trồi lên từ mộ. Bà thì thầm, tay siết chặt áo chồng, tim đập vụn:
Trời ơi, lần đầu tôi thấy cảnh bốc mộ. Sao mà ớn quá vậy ông ơi…
Khi lớp xi măng cuối cùng vỡ vụn, ba thanh niên dốc sức xúc từng xẻng đất một. Dần dần nắp quách lộ ra. Ông Hai nhíu mày, gật đầu ra hiệu:
Được rồi, mở ra đi
Một người thở hắt ra, cầm xà beng nạy mạnh. tiếng gỗ bật lên khiến cho mọi người rợn tóc gáy. Nắp bật ra, mùi hôi bốc lên nồng nặc. Cả đám bịt mũi, có người quay đi, có người nôn thốc tại chỗ.
Bên dưới là một cảnh tượng kinh hoàng. Thi thể bà Chính nằm thẳng, mặt ngập trong lớp nước đục xám xịt. Làn da tím tái nhưng còn nguyên vẹn. Đáng sợ nhất là đôi mắt. trợn ngược, lòng trắng nhợt nhạt, tròng đen đục ngầu, nhìn trừng trừng như đang oán trách người đã phá giấc ngủ dài. Bụng bà phình to, căng cứng như sắp nổ tới nơi.
Ông Hai cau mày, dùng gậy khều nhẹ. Bất ngờ một con lươn đen bóng, to bằng cổ tay từ trong bụng trườn ra. Cái đầu nó nhô lên chậm rãi, hai lỗ tai nhỏ nhọn như sừng đang rung rung như thể nghe từng tiếng gọi từ cõi khác. Tiếp đó, một con cá trê to tướng ngoi lên, há miệng phập phồng, từ mang trĩ ra lớp vàng đục rồi lặn mất trong lớp nước đen.
Trời đất ơi, lươn có tai, lần đầu tôi thấy đó. Một thanh niên mặt tái nhợt.
người kia buông cuốc, giọng run rẩy: Thôi thôi thôi, từ nay chắc khỏi ăn lươn luôn quá
Ông Bảy đứng đơ người, hai tay nắm chặt lấy cái bàn nhựa đỏ. Bà Liên thì ngồi bệt xuống đất, miệng lẩm bẩm tụng kinh, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Ông Hai bước xuống quách, mỗi bước chân của ông, nước trong hầm lại dợn lên từng dòng. Lươn và cá trê bơi qua lại, như cố níu giữ nơi trú ngụ cuối cùng.
Ông rút con dao bén ông đã chuẩn bị, tay run nhưng ánh mắt vẫn dữ dằn. Hít một hơi sâu, ông bắt đầu lóc từng mảng da, rọc từng lớp cơ, đang rữa. Nhặt nhanh từng khúc xương còn lại để bà Chính trở về trong một cái hủ sạch sẽ, đàng hoàng.
tiếng dao cắt vào xác người nghe mềm oặt, sộp nước như đang lạng trái cây thối rữa. Mỗi lát cắt là một lần mùi hôi mới lại bốc lên. Mùi ẩm mốc, tanh tưởi đến khó tả khiến cho vài người đứng trên quách không chịu nổi phải bỏ chạy đi.
Tôi xin lỗi dì Chính, ráng chịu đau chút nữa, sắp xong rồi. Ông Hai thì thầm, tay làm miệng lẩm nhẩm tụng chú cầu siêu.
Khi ông rạch sâu đến phần bụng dưới, một đàn lươn bất ngờ trào ra, trườn ngoằn ngoèo quanh tay ông như không chịu rời. Da tay ông dính nhớp, lạnh buốt khiến ông rùng mình ớn lạnh. Dưới huyệt sâu, tiếng thở của ông Hai nặng nề, mỗi cử động chậm chạp giữa lớp nước đục nhớt, tanh nồng như đang lội qua một cơn ác mộng.
Xác bà Chính sau khi được đưa ra khỏi hầm, ông Hai bắt đầu công việc quen thuộc. rửa sạch từng đốt xương. Ông dẫn tạm một cái máng gỗ, lấy nước sạch từ cái lu lớn sau vườn. nước trong veo nhưng lạnh như rút từ giếng âm. Tay ông lần lượt chà nhẹ từng đốt sống, ống chân, đốt ngón tay, hộp sọ.
Dù đã quen với mùi tử khí, ông vẫn nghẹn họng khi gặp những khúc xương còn dính thịt thâm đen, rửa ra như bã đậu. Gió chiều thổi ào qua nhưng không xua được cái lạnh rợn người. Ông bóc lên và tự đóng hòm hài cốt:
Dì Chính ơi, tôi làm vậy là mong bà siêu thoát. Có linh thiêng thì theo con cháu về, phù hộ tụi nhỏ mạnh khỏe, phù hộ tôi còn sức để giúp người khác như vậy. Đừng lẩn quẩn dưới đáy quách lạnh lẽo này nữa nghe dì.
Vừa sửa, ông vừa như nói chuyện. Giọng ông đều đều, không chỉ là tiếng nói với người chết, mà cũng là lời dỗ dành chính lòng mình.
Sau khi lau khô xương bằng khăn sạch, ông lần lượt sắp xếp từng phần vào chiếc hũ sành, màu lam tro, hai bên vẽ hoa sen và chữ “Thọ” nổi bật. Mỗi lần đặt một phần xương, ông lại khấn nhỏ. Hộp sọ được đặt vào sau cùng. Chiếc hủ vừa vặn khép lại, ông cẩn thận dùng sáp nến bít kín, buộc dây đỏ quanh nắp rồi đứng dậy, ngoái nhìn mảnh đất cao sau bụi tre. Chỗ đó được rồi cao ráo, mát mẻ, không lo nước tràn nữa.
Ông cùng ba thanh niên khiêng cái hũ ra chỗ đất mới. Ánh chiều tà nhạt dần. Họ đào huyệt không sâu lắm, nhưng vừa đủ. Đất mềm, tơi xốp, dễ hơn nhiều so với lúc khai quật. hũ được đặt xuống. Ông Hai đốt nén nhang, cúi đầu khấn một lần nữa. Đất được lấp lại cẩn thận. Họ dựng tạm bia gỗ nhỏ ghi tên bà Chính để sau này vợ chồng ông Bảy có làm mộ thì dễ biết vị trí.
Kết thúc một ngày dài, ông Hai ngồi bệt xuống chiếc ghế nhựa cũ, lưng áo ướt đẫm mồ hôi. Bà Liên bước tới, tay cầm một cái bao ni lông đựng tiền được gói kỹ bằng giấy báo:
Anh Hai, em cảm ơn nhiều lắm nha. Ơn này vợ chồng em nhớ suốt đời. Tiền công hai triệu, anh nhận dùm.
Ờ. có gì đâu, anh làm vì cái tâm thôi. Nhưng mà em đưa thì anh xin nhận, mấy đứa nó phụ đào cũng cực, anh ngại để tụi nó làm không công.
Dạ, nhờ anh mà má em được yên ổn. Em mừng lắm.
Gió chiều bắt đầu thổi mát. Ông Hai đứng dậy phủi tay, giác cuốc lên vai:
Thôi, anh về nha. Mai còn việc khác. Chết rồi cũng phải được yên. Nằm không yên thì tội lắm.
Rồi ông lững thững bước về phía bờ sông. Cái bóng người còn in dài trên con đường đất nhỏ, lấm lem dấu chân người sống, và biết đâu là cả người chết.
tiếng dế rên rỉ ngoài bụi rậm, vọng vô nhà nghe não ruột. Ông Hai vừa rửa mặt xong, chậm chậm bước vào buồng, chuẩn bị đi ngủ. Khi vừa chạm tay vào nắm cửa, bỗng ông nghe tiếng rẹt rẹt từ phía sau nhà vọng lại.
Là tiếng giường lưới kẽo kẹt quen thuộc, âm thanh ông nghe suốt mỗi buổi trưa khi nằm nghỉ. Ông chột dạ nghĩ: “Ủa? Nhà có mình ên, mình ở đây rồi thì ai nằm giường cả?”
Ông nhíu mày, bước chậm ra phía sau. Vừa xuống tới nơi, ông thấy rõ ràng một cái bóng đen đang nằm trên chiếc giường, đung đưa nhẹ nhẹ như đang lim dim chực ngủ. Cái bóng ấy không phải do cây hắt bóng vào, mà là hình người rõ ràng.
Ông cố nuốt nước bọt, lấy hết can đảm hô lớn: Ai đó? Ai nằm giường nhà tôi mà không nói tiếng nào vậy?
Không ai trả lời. Cái bóng vẫn đung đưa. tiếng giường kẽo kẹt đều đều, như đang trêu người. Máu nóng nổi lên, ông bước vội tới, bật công tắc đèn. Đèn sáng, nhưng cái bóng kia biến mất. Chỉ còn chiếc giường lắc qua lắc lại, như có người vừa rời đi vội vã.
Ông đứng lặng. Lưng lạnh ngắt, tim đập thình thịch. Nhưng vốn là người làm nghề cải táng hơn 30 năm, ông đã gặp không ít chuyện tâm linh, nên cố trấn tĩnh: “Chắc ai đó hù chơi thôi. Ma hiền, chứ nếu muốn hại thì nó làm lâu rồi.”
Ông hít một hơi dài, đưa tay tắt đèn. Nhưng vừa dứt ánh sáng, trong bóng tối mờ ảo hiện ra một bóng người đứng trước mặt.
Một người đàn bà tóc rối phủ mặt, mặc áo bà ba đen sờn cũ. Ông Hai giật bắn người, hét lớn, lùi lại va vào cạnh tủ, chén đũa rung lên lách cách:
Thánh thần ơi! Ai vậy? Đừng có nhát tôi à, tôi không có sợ đâu nha
Cái bóng khanh khách cười: Làm gì sợ dữ vậy? dì Chính nè. Hù chút mà bay sợ thế gì?
dì Chính nào? Tôi đâu có quen ai
Trời đất ơi! Hồi chiều bay mới cải táng cho tao, mới đó mà quên rồi ha. Thiệt cái thằng
Hả? dì Chính má Bãi Phến phải không?
Ờ, tao nè chứ ai.
dì Chính kiếm con có gì không? Vậy đừng có nhát con nha, con sợ lắm à
Mày khùng quá. Ai nhát mày làm gì? Tao tới cảm ơn. Nhờ bay mà tao được nằm chỗ sạch sẽ, thoáng mát. Thiệt thoải mái dữ thần
Dạ, hổng có gì đâu dì ơi, cái đó là nghề của con mà.
Mà sẵn đây tao báo tin luôn. Bay sắp gặp quả Sát Thần đó. Có đi đâu thì nhớ cẩn thận. Qua được cái huông này rồi, muốn làm gì thì làm.
Dứt lời, bà Chính tan vào không khí như làn khói mỏng, để lại căn nhà trống lạnh và ông Hai ngồi thẫn thờ.
Mồ hôi đầm đìa sau lưng áo, ông ngồi bệt xuống nền nhà, miệng lẩm bẩm: dì Chính. bà nói vậy là sao cà? Quả Sát Thần gì
Ngoài kia, bóng đêm như đặc quánh lại. trong lòng ông Hai biết đêm nay sẽ rất dài…
Sáng sớm hôm sau, mặt trời vừa ló ra khỏi bụi tre già. Ông Hai nhót đang quét sân, chiếc chổi dừa cũ sột soạt theo tay ông đều đặn. Không gian yên ắng, chỉ có tiếng gà gáy xa và tiếng chổi quét giữa hơi sương sớm.
Bỗng có tiếng dép lẹp xẹp ngoài cổng. Một người đàn ông lạ bước vào. Dáng cao gầy, mặc áo thun đen đã bạc màu, cổ áo sờn rách. Chân phải bị tật, ông ta chống nạng gỗ, bước khập khiễng, mắt nhìn giáo giác.
thấy lạ, ông Hai ngừng tay, nheo mắt nhìn. Sớm An Lương này, ông quen mặt từng người, còn người kia thì chưa từng gặp.
Ông chống chổi, hỏi: Dạ, ông anh kiếm ai vậy
người đàn ông gật đầu, giọng khàn nhưng lễ phép: Ờ, cho hỏi đây có phải nhà ông Hai Nhót, người bốc mộ phải không
Ừ, tôi là Hai Nhót. Mà anh là ai. Kiếm tôi có chuyện gì.
Dạ, tôi tên Sáo Què, ở bên xóm Cần nước á. Nay có việc cần nhờ. Té ra tôi hỏi đúng người luôn á.
Ông Hai mở cổng, mời khách vô nhà. Cả hai ngồi xuống bàn, ông Hai rót trà.
Đâu, anh nói thử coi. Cần tôi giúp chuyện gì
Dạ, thiệt tình không giấu. Tôi có cái mã người thân ở bên Gò Mã đó. Nằm trong đất quang, để lâu rồi. Bây giờ muốn dời về gần nhà cho tiện cúng kiến.
Nhưng mà người ta đồn đất đó dữ lắm, không ai dám đụng tới. nghe nói anh có gan, lại biết xem đất, nên tôi đánh liều tìm tới.
nghe đến “đất dữ”, ông Hai chau mày, gõ nhẹ ngón tay lên mặt bàn.
Ờ. Tiền bạc tôi lo hết, miễn sao đưa được cốt bà về là tôi mang ơn anh suốt đời.
Không phải chuyện tiền bạc. Đụng đất âm khí nặng, bốc không khéo là rước họa. Tôi làm nghề đây mấy chục năm, mấy chỗ đó nếu tránh được thì tôi tránh.
Sáo Hòa (là ông Sáo Què) chồm người tới, giọng gần như van xin:
Anh Hai ơi, ngoài anh tôi không biết nhờ ai. Làm ơn giúp tôi lần này. Tôi mang ơn suốt đời.
Mà cái mã đó là của ai. Bốc sai rồi công an hỏi tới, phiền phức dữ lắm đó nha.
Dạ, của bà cố tôi. Mất cả trăm năm rồi. Tôi biết rõ. mình cúng đàng hoàng, không có ai thắc mắc đâu anh.
Ờ. thôi vậy, trưa nay tôi theo anh qua coi. Mà nói trước là tôi chỉ coi đất thôi. thấy ổn mới tính tiếp.
Ông Huệ mừng rỡ, chắp tay liên tục, mặt như vừa nhẹ bớt cả trăm ký gánh nặng đi.
Tầm trưa, nắng gắt. Ông Hai và ông Huệ rời nhà, men theo lối mòn phủ lá khô, dẫn ra bến sông Nương. Chiếc ghe tam bản của ông Huệ nằm yên bên bờ. nước sông dập dềnh nhẹ theo gió.
Ông Huệ bước trước, đạp nhẹ mũi ghe, rồi quay lại đỡ ông Hai xuống. Khi cả hai đã yên vị, ông cúi người giật mạnh sợi dây, khởi động máy đuôi tôm. tiếng máy phành phạch vang dội mặt sông, làm đàn cò trên cây giật mình bay tán loạn.
Vừa giữ tay lái, vừa níu nón, ông Huệ hô lớn:Ngồi chững nghe anh Hai, gió lớn đó
Gió từ mặt nước hất lên mát rượi khiến ông Hai phải nheo mắt. Hai bên bờ, cây tràm mọc một dãy. Rễ đan chằng chịt xuống mé nước. Tán lá xanh trầm che rợp cả một khoảng trời.
Dưới sông, lục bình trôi lập lờ, kết thành từng khóm tím biếc, loang trên nền phù sa đục ngầu.
Ông Hai nhìn cảnh vật trôi qua, lòng cũng trầm xuống. Ông lấy khăn lau mặt, thở dài. lau mồ hôi rồi lẩm bẩm:
Cái xứ này đẹp ghê ha. Mà lạ, chỗ nào càng đẹp thì chuyện kỳ quái nó càng nhiều.
Ông Hòe chỉ cười không đáp, chiếc ghe lướt qua những khúc quanh ngoằn ngoèo, trườn nhẹ như con rắn nước. Gần hai mươi phút sau, họ đến Gò Mã. một vùng đất cao giữa cánh đồng quạnh vắng. Không nhà cửa, không tiếng gà, chỉ có những ngôi mộ nằm rải rác.
Cái cao cái thấp, cỏ mọc um tùm, như lâu rồi chẳng có ai đặt chân tới. Ông Hòe chạy ghe chậm lại, cho tấp vào một khúc bờ có lối lên. Cả hai bước xuống, chân ông Hai lún nhẹ vào lớp đất bở.
Ông dừng lại, nhìn quanh rồi hỏi:Cái Gò Mã này có từ hồi nào vậy?
Dạ, lâu lắm rồi anh. nghe nói từ hồi chiến tranh á, người ta đem chôn mấy cái xác chết bất đắc kỳ tử vô đây.Anh coi kìa, mộ nhiều lắm, mà phần lớn là mộ quang, không ai thăm nom hết á.
Không khí chùng xuống. Gió ở đây không còn mát mà se lạnh.Ờ, đi thôi. Mả bà cố tôi nằm ở sau cái bụi lao kia kìa.
Ông Hai xiết chặt cây gậy tre trong tay, chậm rãi bước theo. Trực giác của người làm nghề lâu năm mách bảo ông: chuyến đi này sẽ không đơn giản.
Ông Hòe dừng lại trước một ngôi mộ đất, dây leo phủ chằng chịt, rêu xanh rì. Ông dùng rựa phát tạm một đường cho trống, rồi đưa tay chỉ xuống:
Mộ ở đây.
Ông Hai bước tới, nhìn lướt qua. Ngôi mộ chẳng khác mấy cái mả quang xung quanh. Không bia, không tên, chỉ là một ụ đất nhô lên. Nhưng vừa tới gần, sống lưng ông lạnh ngắt, như có luồng gió lạ lùa qua gáy. Cảm giác rõ ràng có ai đứng sau lưng, mà quay lại thì trống trơn.
Ông không nói gì, chỉ đưa cây gậy tre gõ cọc cọc vài cái lên mặt đất. Rồi ông ngồi xuống, bốc nắm đất vò trong tay, đưa lên mũi ngửi, vừa làm vừa lẩm bẩm:Đất này tơi, không khô, hơi tanh nhẹ… Cây cối xung quanh xanh mướt, chắc không phải đất dữ.
Ông lại lấy con dao nhỏ, xăm nhẹ mấy chỗ quanh mộ để xem có đá lạ, rễ cây bất thường hay vật gì bị chôn giấu không. Mỗi lần xăm xong, ông dừng lại một chút, mắt nhắm hờ như lắng nghe điều gì đó.
Một hồi lâu, ông Hai đứng dậy, phủi tay.Mặt đất coi bộ bình thường, không động long mạch, cũng không thấy dấu gì bị yếm hay trấn yểm. Nhưng mà. lạ lắm nghe anh Hòe. Đứng gần đây, người cứ rợn rợn sao đó.
Ông Hòe im lặng, mặt trầm ngâm. Chốc sau, ông Hai nói tiếp:Thôi, cũng trễ rồi. Tối nay mình đào, nhưng mà phải có thêm người. Anh kiếm dùm tôi hai đứa trai trẻ, khỏe mạnh, vía cứng một chút. Ai mà nhận làm thì dặn kỹ: đừng có cười giỡn, đừng nói bậy.
Mấy cái chuyện này không có hoa loa được đâu.
Ờ, tôi hiểu rồi. Tôi có hai đứa cháu gần nhà, để về kêu tụi nó phụ một tay.
Ông Hai nghe vậy thì thôi, quay đầu nhìn ngôi mộ một lần nữa. Ánh mắt ông nặng trĩu, lòng chợt thấy bất an.
Tối lại, tại bãi đất sau rặng trâm bầu, ông Hai vừa tới nơi. Vai giác cuốc xẻng, tay xách bó nhang, cái đèn pin cũ kẹp dưới nách.
Ông Hòe đã có mặt từ sớm, đứng lặng với hai đứa cháu trai. Cả ba người mặt mày căng thẳng, không ai nói một lời.
Ông Hai đảo mắt nhìn quanh. Mỗi bước tiến gần ngôi mộ, ngực ông lại nặng như có đá đè. Tim đập dồn dập, linh cảm chẳng lành ập đến, dồn dập như cơn sốt rét. Ông khựng lại, lắc đầu:
Tôi thấy không ổn rồi. Cái mã này có cái gì đó không đúng. Lỡ đụng trúng thứ không nên, thì khổ cả đám mất.
Ông Hòe nhíu mày, giọng gằn xuống:
Bà cố tôi chết tức tưởi. Chôn ở đây trăm năm không có ai đói hoài tới. Bây giờ phải bóc về thờ đàng hoàng. Chứ để bà nằm hoài dưới cái đám đất lạnh tanh này sao? Tôi coi đất rồi, bề ngoài thì bình thường. Nhưng mà linh tánh của tôi nó réo dữ lắm. Đụng vô là có chuyện. Thôi, tôi không dám bóc đâu. Tôi xin lỗi, tôi về.
Không khí bỗng chùng xuống. Nhưng chưa kịp ai nói thêm lời nào, ông Hòe bất ngờ rút dao, kề thẳng vào cổ ông Hai. Mắt đỏ gay:
Mày phải đào cái mã này lên cho tao! Tao mướn mày tới không phải để nghe giảng đạo. Mày đào, hoặc là mày chết tại chỗ!
Ông Hai chết sững. Hai đứa cháu cũng bước tới. Một thằng nắm chặt cuốc, thằng kia đứng canh. Ánh mắt lạnh tanh. Một đứa buông giọng khinh khỉnh:
Làm lẹ đi ông già. Lấy tiền rồi ai về nhà nấy. Không ai rảnh mà nghe ông lải nhải đâu.
Các người muốn làm gì tôi. Rốt cuộc cái mã này có cái gì ở trong
Mày tốt nhất là đừng có nhiều chuyện. biết ít thì sống nó mới dài. Tao hỏi lần cuối. Mày có đào hay không.
Đào. Tôi đào là được chứ gì
Tay ông run lẩy bẩy cầm lấy cuốc. Lúc mũi cuốc đầu tiên cắm xuống mặt đất, từ xa bỗng vang lên tiếng cú rúc dài, lạnh sống lưng. Ông Hai không dám ngẩng đầu, tay đào mà ánh mắt đã liếc về chiếc ghe ngoài bờ sông.
Sau một hồi đào bới, mũi cuốc chạm trúng cái vật gì cứng cứng. Âm thanh đục nặng vang lên. Ông Hai dừng tay, mồ hôi túa ra ướt lưng áo.
Ông Hòe chồm tới, rọi đèn xuống huyệt. Một tấm ván gỗ sẫm màu hiện ra lờ mờ dưới lớp đất. Gỗ đã mục, nhưng vẫn còn nguyên hình dáng cái nắp quan tài. Cả bốn người nhìn nhau, không ai dám thở mạnh.
Mày nhìn cái gì. Còn không mau mở nắp quách ra.
Tôi không dám đâu. Tôi nói rồi mà, chuyện này không có lành. Thôi tôi về.
Không kịp lùi lại, ông Hòe nhào tới, dao lại kề cổ lần nữa:
Mẹ nó. Rượu mời không uống, muốn uống rượu phạt hả. Mày có tin đêm nay mày chôn xác ở đây luôn không.
Không còn cách nào khác, ông Hòe cúi xuống, lấy xà beng cạy nhẹ một mép ván. Nắp quan bật lên. Một luồng hơi tanh tưởi phả thẳng vào mặt. mùi xác lâu năm, lẩn gỗ mục và đất ẩm khiến ai nấy nôn nao. Cổ họng nhợn lên từng cơn.
Bên trong là một bộ xương người, trắng ngà, hốc mắt tối đen như đang nhìn thấu linh hồn những kẻ tại đây. Dây chuyền, vòng xuyến, ngọc đá rải đầy, lấp lánh dưới ánh đèn pin đầy ma mị. Đặc biệt là trong miệng bộ xương còn ngậm một viên ngọc lớn màu xanh rêu, mặt khắc đầy chữ Tàu.
Cái này. không phải mả người thường. Là mả yểm bùa chữ cổ
Ông Hai lùi lại, rít lên trong sợ hãi. Ông Hòe im lặng một lúc, rồi như phát điên, nhào tới mà cười lớn:
Vàng. Tao biết mà. bà đâu có đi tay không chứ
Gạt hết thảy đám cháu, ông gom vàng bạc nhét vào bao. Cuối cùng, mắt sáng rực, nhìn viên ngọc trong miệng bộ xương:
Con cảm ơn bà cố. Với số vàng này, con sống sung sướng tới cuối đời. Còn viên ngọc. thôi thì cố cho con xin luôn nha.
Dứt lời, ông thò tay lấy viên ngọc, bỏ vào tai nải. Vừa leo lên khỏi huyệt, ông gào lớn:
Tụi bây làm cái gì đứng đó. Lấy xong rồi thì đi về
Không ai trả lời. Hai đứa cháu mặt cắt không còn giọt máu. Mắt mở trừng trừng, miệng ú ớ không nói được lời nào.
Hai cái đứa này, muốn cái gì thì nói. Làm cái gì mà cứ chỉ chỉ ra sau lưng tao hoài vậy. Ông Hòe vừa nói vừa quay lại. Thì trời ơi, một cái đầu lâu đang lơ lửng ngay trước mắt.
Hóc mắt đen thui, miệng nhe răng như đang cười. Một lượng khí lạnh ập tới, túi vàng dăng khỏi tay ông Hòe, rớt xuống đất, vương vải vàng bạc khắp nơi. Một đứa cháu hét thất thanh bỏ chạy, nhưng chưa kịp quay lại, thì nghe phật một tiếng.
Cái đầu nó văng lên cao, máu vọt như suối, sát đổ rạp như bị chặt ngang gốc. Đứa còn lại toan bỏ chạy, thì một bóng trắng lướt tới. Nửa mặt nó lập tức bị xé toạc.
Nó ngã xuống giựt mấy cái rồi nằm im, mắt trợn trắng. Chứng kiến một màn này, người ông Hòe rung lên cầm cặp. Gián vẻ hùng hổ lúc nãy đã biến đâu mất, thay vào đó là một cơ thể mềm nhũn, rượu rã vì sợ hãi.
Sao lại như vậy. Đừng giết tao. Vàng nè, tao đưa cho mày hết. Làm ơn tha cho tao.
Nhưng chưa dứt câu, thì không gian vang lên một tiếng rắc. Cổ ông ta gãy gập, đầu ngoẹo qua một bên như bẻ nhánh khô. Ba cái xác nằm la liệt giữa gò hoang.
Gió gào rít, lá trời xoáy như bão nhỏ. Không gian đặc quánh mùi máu và âm ký, chỉ còn vang vọng tiếng xương khô kêu lên lát cách. Ông Hai chứng kiến hết thảy, mắt trợn trừng lên.
Tim ông đập loạn tưởng chừng như muốn bật ra khỏi lòng ngực. Trong lúc cái bộ xương quái đản vẫn còn rít gạo bên sát ông Hòe. Ông Hài bất ngờ vùng chạy.
Chân trẹo, té lên té xuống. Quần áo lấm lem đất, nhưng ông mặc kệ.
Chạy lúc này là bản năng sinh tồn dẫn lối. Ra tới bờ sông, ông phóng lên ghe, tay giật dây máy đuôi tôm liên hồi.
Mặt cắt không còn giọt máu. Máy nổ một cái bập, rồi chết liệm. Lần thứ hai, máy rồ lên, ông mừng rỡ.
Chiếc ghe lao vút đi, xé toạc mặt nước đen ngòm của con rạch. Ông không dám quay đầu lại. Mắt mở trừng, nước mắt mồ hôi hòa nhau.
Miệng há hốc như không còn biết mình còn sống hay đã chết. Sau lưng ông, gò mã chìm trong bóng tối. Chỉ còn lại ba cái thây nằm chơ vơ giữa nền đất lạnh.
tiếng cười ma mị vang lên giữa cái gò hoang…
Sau cái đêm kinh hoàng ấy, ông Hai gần như thức trắng. Khi mặt trời vừa ló qua trảng dừa, ông lê bước ra khỏi nhà. Mắt thâm quầng, mặt khô khốc. Cảnh máu me, đầu rơi, tiếng gào thét vẫn ám ảnh ông như bóng ma bám chặt sau lưng.
Đội cái nón lá rách, ông lầm lũi đi thẳng tới đồn công an xã.
Vừa tới nơi, ông lao vào, giọng lạc đi vì run:
Mấy chú ơi, có người chết. bị quỷ giết. Tụi nó. tụi nó chết hết trơn rồi.
À, ai chết. Ở đâu. Ông bình tĩnh kể lại đi.
Ông Hai thở hỗn hển, tay chân run rẩy, kể lại mọi chuyện xảy ra ở gò mã. Giọng ông đứt quãng, ánh mắt thất thần. Hai anh công an liếc nhìn nhau, rồi cuối cùng cũng quyết định đi tới đó xem thử.
Họ chở ông Hai ra gò mã heo, nơi từng là hiện trường chết chóc, giờ vắng tanh. Gió thổi lật mấy tàu lá khô. Hố huyệt giờ chỉ còn là một đống đất xới nham nhở. Không xác, không máu, không dấu tích. Chẳng còn ai.
Hai công an soi đèn khắp nơi, dò xét kỹ. Cuối cùng, một người đứng thẳng dậy, giọng bắt đầu gắt gỏng:
Rồi đâu, ông Hai. Ông nói có người chết. Mà đâu. Xác đâu. Máu đâu. Rồi cái đầu ông nói lăn lóc đâu? Ông tính giỡn mặt với người thi hành công vụ hả?
Không. Thiệt mà. Tụi nó. tụi nó chết ở đây. Tôi tận mắt thấy. bộ xương sống dậy nữa mà.
Thôi đi em ơi. Lớn tuổi rồi thì bớt coi phim ma lại. Còn nếu còn phá rối trật tự, tụi tôi lập biên bản à.
Nói rồi họ lên xe, nổ máy bỏ đi.
Chỉ còn lại ông Hai đứng lặng giữa gò hoang. Gió thổi lạnh ngắt. Ông nhìn cái huyệt trống, hai tay buông thõng. Không có gì chứng minh ông nói thật.
Nhưng ba cái xác đó đã biến đi đâu. Còn bộ xương kia. nó đang ở đâu.
Những câu hỏi xoáy mãi trong đầu ông. Mắt ông lạc thần, lòng ông lạnh trơ như bị rút cạn hết máu. Nhưng đó chỉ là một khoảnh khắc nhỏ. trước khi ánh mắt ông chợt thay đổi, và nụ cười khẽ cong lên.
Ba ngày sau sự việc đó, xóm An Lương bắt đầu có chuyện lạ. Sáng đó, người ta thấy một cái xác trôi tấp vào bến nước. Lúc đầu tưởng người nhậu say chết trôi.
Nhưng khi kéo lên, ai nấy cũng chết lặng. Thi thể không đầu, tay chân co quắp như bị rút gân, còn tim thì ngắt cứng đờ. Chiều hôm sau lại thêm hai cái xác nữa, y chang, cũng không đầu, cũng tím tái.
Không ai biết mấy cái xác đó từ đâu trôi tới. Chỉ biết nước dưới sông giờ đục ngầu, bốc mùi tanh như cá chết lâu ngày. Chưa hết, gà vịt trong xóm chết hàng loạt.
Sáng ra, nhiều nhà chỉ còn thấy lông vương vãi. Con sống thì trợn mắt, há mỏ, chân duỗi queo. Tụi con nít kể lại là đêm qua có nghe gà gáy, nhưng chỉ gáy ba tiếng rồi im bặt.
Sáng dậy thì gà mất đầu.
người đi soi ếch cũng chẳng khá hơn. Có người kể thấy rõ ràng có cái bóng trắng đi lầm lũi ngoài bờ mương. Nhưng rọi đèn vô thì chẳng thấy gì, trống trơn. Thiệt là ớn quá. Tin đồn lan rất nhanh.
Xóm nghèo chao đảo. Có nhà bỏ xứ đi lánh nạn. Có nhà treo bùa, đốt nhang, khóa cửa kín mít sau bảy giờ tối. Trẻ con bị cấm bén mảng ra sông.
Còn ông Hai, từ cái đêm ở gò mã, ông gầy rộc đi thấy rõ. Lưng còng xuống, mắt lúc nào cũng lờ đờ. Ai thuê bốc mả, dù giá cao gấp ba, ông cũng lắc đầu.
Mỗi lần như thế, ông đều nói:
Tôi nghĩ rồi. Bây giờ tôi sợ đất lấm. Đất bây giờ toàn quỷ thôi.
Ban ngày, ông cứ ngồi thừ bên bờ kè, mắt dán vào dòng sông. Ban đêm, căn nhà nhỏ của ông đỏ rực ánh đèn dầu. Thoảng mùi nhang trầm và tiếng lẩm bẩm không dứt.
người trong xóm bắt đầu kêu là ông Hai điên. Chẳng ai dám tới nhà ông nữa. Ngay cả ông Năm, người hay rủ ông đi uống cà phê buổi sáng, cũng dần xa lánh, ít qua lại như hồi trước.
Ở khúc sông vắng, nhánh rẽ từ con sông Nương, có một chiếc ghe tam bản chở đầy dừa xiêm đang chầm chậm lướt vào rạch nhỏ. Trên ghe là hai người, một già một trẻ.
người trẻ cỡ mười tám, mặt mũi sáng sủa, cởi trần. Lúc thì thò tay xuống dòng nước đục ngầu, lúc thì cười hí hửng:
Công nhận cái xứ này đẹp quá hen ông Sáu.
Xóm gò mình cũng đẹp, mà đâu bằng chỗ này.
người đang lái ghe là ông Sáu Bành, thầy pháp lừng danh ở xóm gò. Từ sau cái vụ chạm trán quỷ dữ ở xóm Chuồng Bò, ông quyết định bán nhà, lên ghe sống rày đây mai đó, giúp đỡ người bị phần âm quấy phá.
Dĩ nhiên căn nhà nhỏ của ông đâu có đủ tiền mua chiếc ghe này. Phải nhờ thêm thằng Đực. Nó bán luôn cái nhà sát bên để góp vốn vô.
Mua được ghe, hai người mừng rỡ. Giờ buôn dừa, giờ kiếm cơm qua ngày. Đã ba tháng trời rời xóm gò, mà lòng ông Sáu vẫn canh cánh.
Không biết nơi đó giờ có yên ổn hay không? Hay ma quỷ lại nổi lên, phá làng phá xóm
Ê, ông Sáu. Ghe đụng vô cầu kìa
Ông Sáu giật mình, rồi đánh lái né qua. Nhưng không kịp nữa. Rầm. một tiếng, cái mũi ghe đâm thẳng vô chân cầu dở nát. Một bên cây cầu rạn nứt, đổ cái ùm xuống sông.
thằng Đực ôm đầu, hết nhìn ghe rồi quay sang ông Sáu, giọng rầu rĩ:
Rồi. thiệt là chán ông ghê. Ông biết lái ghe không vậy. Chùn lẹ đi ông Sáu ơi. người ta ra bắt đền là khổ nữa đó.
Ông Sáu còn chưa kịp hoàn hồn, thì trên bờ có tiếng la thất thanh:
Bớ làng nước ơi. Có người làm gãy cầu rồi tính bỏ chạy kìa.
Nè, nè, nè. Ai nói tụi tui bỏ chạy.
thằng Đực lắp bắp. Một bà mập, mặc bộ đồ bông hoa tím, chống nạnh mà quát:
Tao nói mày đó, cái thằng ôn con Rõ ràng tao nghe mày hô, chùn lẹ, còn chối hả.
Thì, thì. thì cái đầu mày á. Tao nói cho hai cha con mày biết, không đền cái cầu là không yên với tao đâu.
nghe tới chữ cha con, ông Sáu trề môi liếc Đực:
Trời đất ơi, cái thằng này mà con tui, tui nhấn nước nó lâu rồi đó chị ơi.
Gì, gì vậy ông Sáu. mình một phe mà.
Phe gì Lo mà tính đi.
Mày thấy bà con bu lại đông nghẹt rồi đó. Chạy đâu cho thoát
Trên bờ, gần hai chục người tụ lại. thằng Đực nuốt nước miến, quay sang hỏi nhỏ.
Rồi bây giờ sao. Tiền đâu mà đền. Tao cũng chịu, chắc bán ghe thôi. Vừa nói, ông vừa quay lên bờ, tính giải thích. Thì bỗng từ xa, một cái xác trôi tấp vô, đúng ngay chỗ cái chân cầu gãy.
Cái xác không đầu, úp mặt xuống nước. Ai nấy tái mặt. Một bà già ăn trầu lên tiếng, giọng run run:
Trời đất ơi, cái xác thứ năm rồi đó! Mấy bữa nay trôi vô hoài vậy.
Ông Sáu bước lại gần.
Ủa, dì nói vậy là sao.
Ờ, cậu chắc người xứ khác không biết. Gần tuần nay, sáng ra là thấy xác trôi vậy. Cái nào cũng mất đầu.
Công an xuống hoài à, mà không lần ra manh mối gì ráo trọi. Ghê dữ lắm.
Ông Sáu cau mày, lặng lẽ bấm đốt ngón tay. Một lúc, ông lẩm bẩm:
Vùng này có quỷ ngữ rồi. Không ngờ ở cái nơi heo hút này lại có loài ác linh như vậy.
Ủa, ông làm gì mà đứng đực ra vậy. Lo đền cái cầu cho người ta đi chứ.
Bà Chín Ụ thấy ông lẩm bẩm thì ngắt lời. Ông Sáu quay sang thằng Đực, nhướng mày nói nhỏ:
Tao có cách khỏi cần đền cái cầu. Trái lại, bà con còn cho tiền thêm nữa. Mày tin không.
Thôi đi ông ơi, làm gì có vụ trời cho vậy. Con không tin đâu.
Ông Sáu cười nhẹ, nhìn lên bờ, rồi cất tiếng lớn:
Thưa bà con, có phải xóm mình gần đây ban đêm hay nghe tiếng la, tiếng khóc? Sáng ra thì gà vịt chết sạch.
Một thoáng im lặng. người ta ngạc nhiên, người này nhìn người kia. Rõ ràng ông này là người mới tới, chưa hỏi han gì mà lại biết rõ như vậy.
Thiệt lòng mà nói, xóm mình đang bị quỷ ám. Con quỷ đó chuyên bắt đàn ông, ăn đầu. Cái xác bà con thấy là nó làm ra đó.
Ủa, nói như vậy, cậu đây là thầy pháp hả. Sao biết nhiều dữ vậy.
Nói thầy con không dám nhận. Nhưng mà con cũng có học chút đạo pháp, gọi là biết một ít để giúp đỡ thôi.
Nói qua nói lại một hồi, vụ cây cầu được bà con tạm bỏ qua. người thì tò mò chuyện ông thầy pháp, người thì bàn tán về cái xác không đầu.
Cuối cùng, bà Chín Ụ đứng ra dàn xếp:
Chắc ông Sáu với thằng Đực qua trú đỡ ở nhờ nhà ông Hai Nhót. Ổng sống một mình, lại là đàn ông, dễ bề sinh hoạt.
Anh Hai ơi, có nhà không. Rồi, chắc lại ra bờ kè ngồi nữa rồi. Đúng là Hai điên mà.
Bà vừa quay bước thì giật bắn mình. Ông Hai đứng sát sau lưng bà từ lúc nào không rõ. Tóc tai rối bù, áo quần dơ dáy, mùi người hôi như chuột cống, mắt trắng dã, miệng lảm nhảm mấy câu vô nghĩa.
Bà Chín hoảng hồn:
Trời ơi, trời ơi. Ủa, đây nè anh Sáu, cái người này là ông Hai đó. Thôi, tôi giao lại cho anh nha.
Nói xong, bà quay đầu bỏ đi. Mặc kệ thằng Đực gọi í ới, bà không thèm ngoái lại.
Ông Sáu nhìn ông Hai một lúc rồi khẽ thở dài. người trước mặt ông không còn là người thường nữa. Mắt vô hồn, khí âm nặng tới nỗi như có màn sương phủ quanh thân thể.
Ông Sáu đưa hai ngón tay quét ngang mắt mình. Đồng tử ông lóe sáng một thoáng rồi tắt đi.
Trúng tà nặng rồi. Đỉnh đầu bốc khói đen. Trễ vài bữa nữa là đi chầu ông bà rồi.
Không đợi ai hỏi, ông đưa tay ấn vào đỉnh đầu ông Hai, rút ra một lá bùa vàng. Miệng niệm chú, ông nhét lá bùa vào miệng đối phương. tiếng chú đều đều vang lên.
Lá bùa trong miệng ông Hai bất ngờ bốc cháy, rồi tắt ngay như chưa từng tồn tại. Ông Hai rào lên một tiếng, ngã vật ra đất.
Được rồi, mày cõng ổng vô nhà đi. Lấy dầu tầm quất xoa mạnh vô người ổng cho tao.
Mười lăm phút sau, ông Hai bật ho khan, rồi thở hắt ra từng hơi thở dốc. Mắt ông dần lấy lại thần sắc, nước mắt ứa ra. Ông ngồi bật dậy, ngơ ngác nhìn hai người trước mặt, rồi khẽ hỏi:
Ông là ai vậy. Sao lại ngồi trong nhà tôi. Xin lỗi.
vì tự tiện vô nhà mà chưa xin phép. Nhưng mà hai ông cháu tôi vừa cứu ông anh một mạng đó.
Cứu cái gì. Ông Sáu nghiêm mặt, nhìn thẳng. Tôi là Sáo Bành, ở sông Gò. Tới đây vì chuyện bất đắc dĩ.
Gặp ông anh trong tình trạng trúng tà nặng, tâm trí loạn. Tôi đành dùng pháp chú để mà trục tà ra. Ông hai rờ tay lên người, cảm thấy chỗ nào cũng đau rác, nhưng không màng.
Điều duy nhất ông cảm nhận rõ là tâm trí của mình đã sáng trở lại. Không còn bóng tối, không còn tiếng ai đó gọi mình trong mộng. Ông quỳ sập xuống, nước mắt vàng vụa.
Dạ thầy ơi, xin thầy cứu con, cứu cả cái xóm này. Con lỡ tai gây ra chuyện tày trời rồi thầy ơi. Nè nè nè, làm cái gì kỳ vậy. Đứng lên nói chuyện đi.
Ông Sáu đỡ ông hai đứng dậy. Nói thiệt hết cho tôi nghe, không có được giấu một chút nào hết, hiểu chưa. Ông hai bắt đầu kể lại toàn bộ chuyện ở gò mã đêm đó. nghe xong ông Sáu trầm ngâm, ánh mắt tối lại, tai vuốt nhẹ dành lỗ tai.
Ông nhìn xuống nền đất, khẽ gật đầu. Con quỷ này dữ hơn con ở xóm trùng bọ luôn ha. Tao nghĩ nó sống cả trăm năm rồi. Ngậm viên Ngọc là bị phong ấn.
Lấy Ngọc ra là phá ấn. Tức là chính lòng tham con người đã giải thoát cho nó đó. Vậy bây giờ sao đây ông Sáu. Phải diệt nó hả. Trước mắt lò bảo vệ xóm làng đã.
Không để nó tiếp tục giết người. Sau đó mới tính tới chuyện dụ nó lộ mặt. Không có nóng vội được.
Ông hai và đực nhìn nhau, lòng rối như tơ vò. Giờ đây họ chỉ còn biết dựa vào ông Sáu. người duy nhất còn đủ bản lãnh, đối mặt với thứ đang trình rập cả xóm ngoài kia.
Khi trời vừa hừng đông, ông Sáu đã ngồi ngoài hiên trên cái ghế tre. Trước mặt là cả xấp giấy vàng, các hình chữ nhật đều tăm tắp. Bên cạnh là chén mực tàu và một cây viết lông dài chừng nửa gan tay, cán bằng tre.
Đầu chổi làm từ lông đuôi chồn, thấm mực đen xì. Ông hít sâu một hơi, nhắm mắt rồi từ từ nâng viết. Tay ông bắt đầu múa trên giấy.
Nét cuộn tròn, nét vuốt nhọn như đầu rắn. Có đoạn ngoằn ngoèo như sóng lượn. Mỗi đường mực dứt khoát, đậm đều, không lem, không nhòe.
Như thể ông rót khí tức của mình ra từng lá. Xong một lá, ông lại nhắm mắt, miệng lẩm nhẩm chú, rồi nhẹ nhàng đặt lá bùa qua một bên, xếp ngay ngắn trên tấm chiếu cũ. Ông Hai và Đực đứng một bên, thổi nhẹ cho bùa mau khô, sau đó đem ra phơi nắng sớm.
Đến khi trưa đứng bóng, ông Sáu mới đặt viết xuống, thở dài.
Rồi. hơn hai trăm lá. cái tay muốn rụng luôn à.
Ông Hai cẩn thận xếp bùa vào giỏ tre, còn Đực thì lấy bao ni lông bọc lại cho khỏi thấm nước. Cả ba chia nhau đi phát khắp xóm, ông Sáu dặn kỹ:
Nhớ dán ngay cửa, hoặc là để dưới gối. Tuyệt đối không được đốt, không được bỏ. Bùa này trị tà, chứ không phải đồ chơi đâu.
Gần tới xóm bên cạnh, ông Hai nhờ người quen đem qua giùm. Cũng dặn dò rành rẽ, sợ người ta sơ ý làm hư.
Trên đường đi, ông Sáu nói nhỏ với Đực:
Bùa này kêu là Thiên Khắc Địa Trấn, rất mạnh. Ma quỷ đi ngang cũng phải tránh, miễn là bùa được niệm đúng chú. Nhưng mà nhớ nghe, nó chỉ cản chứ không diệt được con quỷ kia.
Vậy cản được bao lâu chứ ông Sáu.
Còn tùy. Nếu quỷ lực của nó chưa đủ mạnh, thì bùa trụ được một thời gian cũng dài, chuyện này mày yên tâm đi.
Mới đó mà nắng đã tắt. Ba người ngồi quanh mâm cơm đơn sơ. Chảo cá trê kho keo, dĩa rau lang luộc xanh mướt, bên cạnh là chén chao thơm nức mũi. Ông Hai vừa gắp miếng cá bỏ vô chén ông Sáu, vừa ái ngại nói:
Dạ, anh Sáu ăn đi. Cơm nhà quê nghèo mọn, tiếp đãi như vậy thấy mắc cỡ lắm.
Vậy là ngon hết sẩy rồi. Ai mà đem vàng tới đổi, tôi cũng không có đổi đâu nha. Phải vậy không mày.
Ông vừa dứt câu, vừa nhìn qua thằng nhỏ đang nhai một muỗng cơm bự tổ chảng. Hai má phồng như cóc bị phùng má. Nó vừa nhai vừa cố nuốt, miệng chặn ra mấy chữ méo xẹo:
Dạ, ngon bá cháy luôn á chú Hai. Công nhận chú đàn ông mà nấu cơm ngon dữ thần.
Cái thằng, nết ăn như heo đói vậy. người ta nhìn vô tưởng đâu tôi bỏ đói cháu tôi mấy tháng.
Thôi kệ nó đi anh. Nói vậy mà thiệt tình ăn ngon thấy rõ, còn hơn mấy đứa gắp cọng rau rồi nói no.
Ừ, thiệt tình tới mức cạo luôn cái nồi cơm nhà bay rồi đó.
Nói chuyện một hồi, ông Sáu mới ngó sang. thấy trời thì nóng hầm hập, vậy mà ông Hai vẫn khoác cái áo sơ mi dài tay dầy cui, mồ hôi rịn ra đầy trán. Ông nhíu mày hỏi:
Ủa, trời nóng muốn chết mà bay không mặc ba lỗ hay bà ba cho nó mát. Mặc áo dài tay chi cho cực vậy.
nghe hỏi tới, ông Hai thoáng giật mình. Tay đang gắp cá bỗng khựng lại giữa chừng, cái đũa rung nhẹ. Ông vội kéo tay áo xuống thấp hơn, giọng lấp liếm:
Ờ, dạ. dạ tại mấy bữa nay tôi thấy trong người riêm riêm, nó muốn ấm ấm, muốn sốt. Mặc vậy cho khỏi bị gió lùa, lỡ phát bệnh thì khổ thiệt.
Ông Sáu gật gù. nghe cũng xuôi tai, nên không gặng hỏi gì thêm. Nhưng trong khoảnh khắc ấy, ánh mắt ông Hai chợt tối lại, như thể câu hỏi vô tình chạm đúng một điều gì đó khó nói. hoặc là một bí mật không muốn lộ ra.
Cơm nước xong, ông Sáu đang ngồi trước hiên, mắt lim dim nhìn mây trời thì từ xa, bà con xóm An Lương kéo tới rồng rắn. người ôm dây cột sâu, người xách bịch khô, có bà còn giác nguyên cái bao gạo.
Ủa. Bà con đi đâu mà kéo tới đông dữ vậy. Có chuyện gì hả.
Bà Tám Lan, miệng nhai trầu đỏ au, là người lên tiếng trước:
Dạ, tụi tôi đem quà quê, quà biếu anh Sáu ăn lấy thảo. Với sẵn tiện. anh coi giùm cái. Bữa giờ tôi nằm mơ thấy rụng răng cửa hoài hà, không biết có điềm hên hay xui. Mà nếu được thì chỉ tôi quánh con gì luôn.
Ông Sáu chưa kịp mở miệng thì chú Mười Lép chen vô:
Anh coi giùm tôi cái nốt ruồi ngay rún nè. Bà nhà tôi nói đó là nốt ruồi phá sản á.
Ờ còn tôi nữa. Anh liếc thử cái đường chỉ tay của tôi coi sao. người ta nói số giàu sang, mà giờ sáu chục rồi vẫn xài chén mẻ. Chừng nào mới khá hả anh.
Trời ơi, tôi là thầy pháp, chứ không phải thầy bói trợ nha. Tôi bắt quỷ, giải bùa, trị tà. chứ mấy.
Cái vụ nằm mơ, đoán mộng, coi tướng số đồ đó. là ngoài phạm vi hành nghề của tôi nha.
Trời ơi. Ủa tưởng đâu thầy pháp cái gì cũng biết hết trơn chứ.
Ha ha, biết chứ. Nhưng mà là biết giới hạn của mình. Mấy cái vụ này để tôi dắt bà con lên chợ Mương kiếm ông Mười Đoàn đi. Ổng coi bói trúng như trời đánh luôn á.
nghe tới đó, cả đám ồ lên. Thế là bà con quay sang rôm rả bàn chuyện ông Mười Đoàn, bỏ ông Sáu ngồi lại một mình. Ông rót chén trà, nhấp một ngụm, lòng nhẹ hẳn như vừa né được một bầy quỷ. tướng số.
Về khuya, xóm An Lương đóng cửa im ỉm như có lệnh giới nghiêm. Duy chỉ còn ba bốn người ngồi lặng lẽ dưới gốc nhãn dại: ông Sáu, thằng Đực và ông Hai Nhót.
Trước mặt họ là cái la bàn cũ kỹ, mấy sợi chỉ phép rối nùi nằm kế bên một lá bùa vàng vẽ hoằng ngoèo bằng mực xạ hương.
Ông Sáu ngồi xếp bằng. Tay phải xoay la bàn, tay trái kẹp lá bùa, miệng lầm rầm tụng chú. Kim la bàn quay như chong chóng. Lúc chạy đông, lúc quẹo tây, không chịu đứng yên.
Ông Sáu cau mày, lầm bầm:
Lạ dữ. không dò ra được dấu vết của nó ta.
Không tìm thấy con quỷ hả ông.
Ờ. đúng là hàng cốt quỷ. Sống lâu mà lành. Không phải hạng tôm tép đâu, con.
Ông Sáu chưa chịu thua. Móc thêm trong túi ra một lá bùa tên là. Bám Tạ Khiến, phất lên không trung coi có ăn thua hay không. Lá bùa mới bay được chừng ba vòng thì rớt cái bụp xuống đất như có ai đập ngang.
Ông Sáu thở dài, rồi nhắm mắt thi triển Thiên Nhãn. Con mắt ông lóe sáng, rồi trắng dã như người mù. Vài giây sau, mắt trở lại bình thường mà mặt ông thì sầm sì:
Nó triệt âm khí được luôn. dữ thiệt à.
Ông Hai phe phẩy cái quạt mo đuổi muỗi, thở ra:
Tôi nói rồi, cái con này không phải dạng vừa. Bữa gọi mã, hên là nó không nhìn trúng tôi. Chứ nó mà lia qua một cái là giờ tôi ngồi ăn chè dưới âm phủ rồi.
Ông Sáu gật gù, chậm rãi nói:
Không lần ra được nó. chỉ còn cách dụ nó ra mặt thôi.
Dụ sao ông. Dụ kiểu gì.
Ông Sáu quay qua, liếc thằng Đực từ đầu tới chân. Ánh mắt y như đang lựa gà vô nồi. thằng Đực rùng mình:
Ông nhìn gì ghê vậy. Ánh mắt ông thấy ghê quá nè.
Giúp ông chuyện này đi con. Giúp luôn bà con xóm này.
Nhưng mà. giúp cái gì. Con không biết gì đâu mà giúp. Bộ ông tính.
Ừ. Mày còn trẻ, trai tráng, dồi dào sinh khí. Con quỷ này nó mê mấy thằng đàn ông khỏe mạnh. Mà mày á, là ứng viên số một.
Trời đất ơi. Ông tính đem con ra làm mồi nhử thiệt hả.
Ừ.
Trời đất mẹ ơi. Tình thầy trò gì kỳ cục dữ vậy trời.
thằng Đực líu cả lưỡi:
Con tưởng đâu ông thương con lắm chứ. Giờ đem con ra nhử quỷ là sao.
Ông Sáu dỗ dành nó cái bốp, cười khì:
Yên tâm đi. Tao không để nó nhai đầu mày đâu. Tao sẽ cho mày lá bùa phòng thân. Chỉ cần nó ló mặt ra là tao xử liền.
Nhưng mà con sợ lắm. Không có ai khác hả ông. Ông kiếm người khác được không.
Mày giúp ông cái vụ này đi, tao hứa truyền hết đạo pháp cho mày.
thằng Đực đang run lẩy bẩy, nghe tới đó thì mắt sáng như gặp ông bà hiển linh. Nó bật dậy:
Trời ơi, nãy giờ ông không nói sớm. Vậy cứ dắt con ra làm mồi cũng được, miễn sao sau này ông dạy con bùa chú. với cái Thiên Nhãn gì đó là được hà.
Mày ham học vậy là được rồi. Tao nói là tao giữ lời mà.
Dạ. Con mê bắt ma từ nhỏ. Năn nỉ ông hoài ông không cho học. Bây giờ được học chính quy, con chơi tới bến luôn.
Ba người nhìn nhau cười hề hề, nhưng trong lòng ai cũng thấp thỏm.
Đêm nay, xóm An Lương sẽ mở màn một vở tuồng. Mà diễn viên chính. không ai khác chính là thằng Đực.
Từ khi vùng này xảy ra quỷ sự, sân đình đầu xóm bỗng quạnh vắng lạ thường. Nơi từng thờ đủ tượng thần.
Tượng Phật, từng rộn ràng mỗi mùa lễ lớn như Vu Lan, Trung thu hay trai đàn giải hạn, bây giờ lại lạnh ngắt. Trước kia, mấy người ế vợ, ế chồng hay ra đây cầu duyên, ra về mặt mày hớn hở như sắp trúng số. Còn bây giờ, không ai dám bén mảng tới gần.
Giữa sân đình, ông hai khiêng ra một cái bàn gỗ nhỏ. Trên bàn đặt sẵn ấm trà, hai cái chén sành, một dĩa đậu phộng rang và một cái đầu heo luộc còn bốc khói nghi ngút. Phía sau bàn là một cái ghế con. thằng Đực ngồi lên đó, mặc áo bà ba trắng, đầu đội nón lá. Trông chẳng khác gì cô bán dừa mới đi ngoài nắng về. Nó nhịp chân, phe phẩy quạt mo, miệng lẩm bẩm:
Ờ thì. dẫu là dụ quỷ, mà sao ông Sáu cho mình ăn mặc giống như đi thi kịch Lương vậy trời.
Trong miếu, có hai bóng người rình rập như hai thằng ăn trộm. Ông Sáu nheo mắt dòm ra sân:
Nè Hai, mày thấy nó giống con mồi ngon chưa.
Trời đất ơi, giờ này anh còn giỡn. Mà sao cho nó mặc đồ trắng bóc chi vậy.
Dễ hút tà khí. Với lại ban đêm nhìn cũng dễ. Quỷ nó khoái màu trắng mà.
Ủa, chớ không phải anh cố tình cho nó mặc giống mấy cô hồn tháng Bảy hả.
Trời, im coi. Để nó nghe thấy nó giận, nó bỏ về bây giờ.
Trong miếu thì thào râm ran. Ngoài sân, thằng Đực đã nổi da gà. Mắt nó cứ liếc tới liếc lui, dán chặt vào mấy bụi chuối, bụi tre hai bên sân đình. Trong lòng thấp thỏm như kiến bò. Nó bắt đầu đọc thơ, chắc là để tự trấn an:
Ờ ờ. Tao là trai tân xóm Gò Mới mười tám tuổi, chưa hề hôn ai Nếu ai thương nhớ có lời Đực đây sẽ đáp, chẳng hề phụ ai.
Đọc xong, nó ôm gối ngồi chờ. Chờ hoài chẳng thấy ma quỷ đâu, chỉ thấy muỗi bu đầy, cắn từ mông tới chân. Nó đập muỗi chan chát, đánh đến đỏ cả hai bàn tay.
Trong miếu, ông Hai bắt đầu sốt ruột:
Sao chưa thấy gì vậy anh Sáu. Cách này có ăn thua gì không.
Kỳ vậy ta. Không lẽ quỷ nó chê thằng Đực hả.
thấy thằng nhỏ tội nghiệp, ông Sáu mới đốt ba cây nhang, tính đem ra cắm xuống đất đuổi muỗi cho nó. Nhưng vừa bước tới cửa miếu thì… rắc. một tiếng giòn tan phát ra từ bụi tre bên hông. Ông Sáu giật nảy mình, rồi chui tọt vào miếu, kéo theo cả ông Hai. Mặt hai người tái xanh.
Từ trong bụi tre, một hình thù lết ra, nghe rột rẹt như tiếng kéo xương bò trên lá khô. Ban đầu chỉ thấy bóng đen nhấp nhô, rồi nó từ từ hiện ra dưới ánh trăng.
Đó là một bộ xương người. không da, không thịt. Hai hốc mắt đen ngòm, cái quai hàm lắc qua lắc lại như đang nhai gió. Mỗi bước nó đi, mấy đốt xương kêu lên lách cách, như trống trận trong bụng người đang đói.
thằng Đực thấy hết. Mặt nó tái như cám nguội, môi giật giật không thốt nổi thành lời. Tay nó xiết chặt cái dây chuyền có lá bùa nhỏ ông Sáu đưa, bảo là thứ giữ mạng giữa sống và chết.
Nó lắp bắp:
Trời ơi. quỷ thiệt ông Sáu ơi. cứu con. bà mợ ơi lên.
Quỷ cốt bước nhanh. Mới thấy nó lò dò ở bụi tre, ngoảnh mặt lại đã đứng chình ình ngay trước mặt Đực. Gió lùa theo sau, làm tà áo bà ba trắng của Đực bay phần phật, như cảnh quay chậm.
Con quỷ.
Không nói gì, nó đứng đó. Hai hốc mắt trống hoác, nhìn chằm chằm vào đầu và cái thân hình mập mạp của thằng Đực.
nhìn kiểu đó ai cũng biết. nó đang thèm.
thằng Đực thì run cầm cập. Nó đưa cây quạt mo che mặt:
Con quỷ. À không, anh. anh quỷ tha cho em. Ăn tạm cái đầu heo này đi. Chứ đầu em cứng lắm, ăn không có ngon đâu.
Con quỷ nghiêng đầu, quai hàm nhai rôm rốp. Rồi bất ngờ nó đưa tay gạt mạnh.
Cái đầu heo trên bàn rơi bịch xuống đất, lăn lóc tới chân bụi tre. Quỷ cốt trợn mắt, nói bằng giọng the thé:
Ai là anh mày. Tao là đàn bà. Mày có thấy thằng đàn ông nào mang guốc không mày.
thằng Đực nghe vậy cúi nhìn xuống. Nó đang mang một đôi guốc gỗ màu đỏ, đế cao, quai ngang. kiểu mấy bà hội đồng thời xưa.
Trong miếu, ông Hai rụt cổ lại, mặt trắng bệch, nhưng không nhịn được mà thì thào:
Trời trời. Phật ơi. quỷ mà biết. ngượng cả anh Sáu. Nó có biết người ta nhìn nó dị hồn lắm không. Ờ. quỷ gì mà nữ tính dữ vậy.
Nhưng mà nói thiệt, nếu nó không mang guốc. tao cũng không biết nó đàn ông hay đàn bà. nhìn trơ xương rồi, phân biệt kiểu gì mà nổi.
Ở ngoài sân, một người một quỷ đang đối đầu nhau trong căng thẳng.
Bất ngờ, quỷ cốt giơ cánh tay trơ xương, chộp thẳng vô mặt thằng Đực. Ngay lúc nguy cấp, ông Sáu từ trong miếu phóng ra, quăng một lá bùa vàng. Lá bùa bay vèo tới, vừa chạm vào thân quỷ thì nổ ầm một tiếng.
Bị đánh bất ngờ, quỷ cốt rú lên. Thân thể bị đẩy lùi ra xa, làn khói đen cuộn quanh như bốc hơi khỏi bộ xương.
Thế cục đảo ngược. Đực mừng quýnh, cắm đầu chạy vào trong miếu, vừa chạy vừa la:
Lần sau có dụ quỷ. kiếm ai khác đi nghen. Con không có ưa mấy cái người bạc sứ đâu.
Ông Sáu hừ một tiếng:
Hay cho kiếp ngạ quỷ, không chịu tu, không trả nghiệp, còn mang oán đi giết người. Mày sống dài quá rồi. Hôm nay tao cho mày nghỉ phép luôn.
Dứt lời, ông Sáu rút ra một sợi chỉ phép đỏ, phóng thẳng về phía con quỷ. Sợi chỉ bay vun vút như mũi tên, rồi quấn lấy thân thể nó như có linh khí. Quỷ cốt bị trói đứng im không động đậy, nhưng lại cười nhạt.
Bất ngờ, nó vung tay. sợi chỉ đứt ra từng đoạn.
Nè nè nè. ông già kia. Ông ở đâu chui ra mà ăn nói hàm hồ vậy hả. Ai giết ai. Giết người rồi còn trối trá. Để coi mày chịu nổi mấy lá bạo linh phù của tao không.
Nói xong, ông Sáu đưa tay vào trong túi nải, rút ra ba lá bùa đỏ, tung lên không:
Quyết linh bạo chú. Diệt.
Ba lá bùa xoay vòng trên không, phát ra ánh sáng đỏ lòe, rồi bay vụt tới. Quỷ cốt tái mặt, vừa tránh vừa la:
Ê ê ê. Có gì từ từ nói. Ông dồn người ta vô đường chết vậy.
Mày làm cái gì thì lương tâm mày biết. Tao mà bắt được, tao đem phơi nắng cho xương mày khô queo luôn.
Ba lá bùa vẫn rượt theo, như có mắt. biết không thoát được, quỷ cốt tụ khí, quấn quanh người bằng một mạng xương đen dày đặc.
Cả ba lá bùa đồng loạt phát nổ khi chạm vào lớp xương. Sức chấn động làm cỏ cây ngã rạp. Đực và ông Hai núp trong miếu thấy vậy, ông mừng quýnh:
Chắc giết được nó rồi. Lần này để coi mày có sống nổi không.
Đực nói, nhưng chưa kịp thở ra thì. từ trong làn khói đen. một cánh tay xương xẩu bất ngờ lao ra, chụp lấy cổ ông Sáu.
Không kịp né, ông Sáu chỉ kịp đưa tay lên gạt. Tuy đỡ được cú đánh chí mạng, nhưng cánh tay ông vẫn bị rách toạc, máu chảy ròng ròng, nhỏ đỏ cả mặt đất.
Ông Sáu.
Ông Sáu rồi. thằng Đực từ trong miếu chạy tới đỡ ông dậy, mặt xanh mét.
Quỷ cốt chầm chậm tiến lại, vừa đi vừa càm ràm:
Nãy giờ tôi nhịn ông dữ lắm rồi đó nghen. Bộ tưởng tôi ăn chay hả. Quăng bùa đánh người ta như quăng dép vậy. Mà nè, ông nhìn coi.
Đứt luôn cái đôi guốc tôi mới ăn trộm được rồi. Thiệt tình hà.
Ả chìa đôi guốc đứt quai ra trước mặt hai người, giọng hậm hực:
Bây giờ sao. Hổng đền là tôi nằm dạ giữa sân luôn đó nghen.
Mày bớt diễn cái trò vô tri đó đi. Ông Sáu nói. Mày đã giết bao nhiêu người. Ăn bao nhiêu cái đầu rồi.
Cái gì. Trời đất ơi. Ai đồn bậy bạ vậy. Bà ở đây từ hồi quá cốt, còn chưa dám đạp một con mèo. Nói cái gì mà giết người. Bộ tôi rảnh lắm hả.
Ủa sao kỳ vậy ông Sáu. thằng Đực chen vào. Không phải ông Hai nói tận mắt thấy nó giết người ở gò mã hả. Mà ông cũng bảo nó là con quỷ ăn đầu trong xóm mà.
Tin lời quỷ được bao nhiêu phần. Chính tao thấy quỷ khí đọng lại trên cái xác ở chân cầu gãy mà. Ông Sáu liếc nhìn ả ta.
Lúc này, ả đang loay hoay dán lại cái quai guốc, vừa thổi vừa thở dài. thấy ả mất cảnh giác, ông Sáu lén rút ra một lá bùa vàng, trên có quái văn kỳ lạ. Chưa kịp niệm chú thì vèo một tiếng, ả quỷ biến mất khỏi tầm mắt như cơn gió.
Ông Sáu sững người. Từ ngày hành đạo, chưa lần nào ông đụng trúng một con quỷ vừa quái vừa khó đoán như vậy.
Đang đảo mắt tìm, bỗng nghe tiếng giọng từ trên cao. Đực ngước lên. ả ta đang vắt vẻo trên ngọn tre, tay cầm guốc, chân đung đưa.
Ông Sáu định quăng bùa thì ả đưa tay ngăn lại:
Khoan đi ông cha, hình như giữa tụi mình có chút hiểu lầm đó.
Hiểu lầm cái gì. Chính mày giết ba người ở gò mã. Giọng ông Hai vọng ra từ trong miếu. Ông lật đật chạy ra, tay chỉ vào ả, miệng nói không ngừng:
Giết nó đi thầy. Để lâu quỷ lực của nó càng mạnh, tới lúc đó bà con xóm này cũng chẳng còn toàn mạng đâu.
À ha, nhớ rồi ha. Chính cái đêm ở gò mã, tôi thấy ông giết ba người kia. Ra là vậy, ông giết người rồi đổ hết lên đầu tôi ha.
Ông Hai tái mặt, quay sang nhìn ông Sáu trơi dơi. Hai người họ cũng tròn mắt ngỡ ngàng.
Chuyện là sao vậy thằng Hai.
Thầy đừng có tin lời con quỷ. Tôi thề, lời tôi kể là thiệt á. Tôi đâu có giấu xác người nào đâu. Mấy cái vụ trôi sông cũng không phải tôi giết.
Ủa, ai nói gì giấu xác. Rồi mấy cái vụ trôi sông ai nhắc. Mà bay tự khai ra làm chi vậy. thằng Đực gãi đầu. À mà ông Sáu thấy lạ không. Nguyên tuần mình ở nhà chú Hai, tự nhiên mấy cái vụ trôi sông im ru luôn à.
Không khí bỗng trùm xuống. Câu nói của thằng Đực như một hồi chuông cảnh tỉnh. Lý ngờ trong lòng ông Sáu dâng trào. Ông lặng lẽ tiến lại gần ông Hai, mắt nhìn thẳng, giọng nghiêm túc hẳn lên:
Cái vụ gò mã rốt cuộc là sao. Ngày đầu tiên tới đây, khi tao gặp mày, người mày đã phảng phất mùi quỷ khí. Mày đã làm gì vậy, Hai.
Tôi. tôi không có làm gì hết á. Mấy cái chuyện đó là thiệt mà. Thầy Sáu à, thầy phải tin tôi.
Tao cũng muốn tin. nhưng mà cái hình xăm chữ “Sát” trên tay mày á, thì tao không thể tin được.
Không đợi phản ứng, ông Sáu chụp lấy cánh tay ông Hai, kéo mạnh tay áo.
Dưới ánh trăng nhạt, một hình xăm chữ Hán đen xì hiện ra. Nét mực như máu khô. Bên dưới là một đầu lâu nhỏ, tỉ mỉ sắc sảo.
Đây là Ấn Sát Địa Chi. loại chú cổ tàn độc, luyện bằng đầu người. Ai luyện thành. thì muốn gì được nấy.
Tiền tài, tình ái, thậm chí là cả mạng sống của người khác. Mà mày giấu kỹ thiệt. Sống chung cả tuần mà tao không hay biết đó.
Phải đó. Là tôi làm đó. Thì sao. Một cơn gió lùa qua sân đình, cờ phướng rung lên.
Ông hai ngẩn đầu. Tôi chỉ muốn có vợ, có con, có một mái ấm như người ta. Tôi nghĩ nếu tôi giết hết đàn ông vùng này, tôi sẽ cưới được một người thương tôi.
Nghĩ vậy tôi thấy cũng đáng rồi. Không ngờ một đứa lầm lì ít nói như mày, mà lại máu lạnh tới vậy. Cái bữa đầu tao gặp mày, có phải mày bị bùa phán không. Phải.
Hai tuần trước tôi đi bóc mộ, cho một người thầy Pháp người hoa. Tôi thấy bên hông ổng có cuốn sổ tài, tôi lấy học theo. Mấy ngày đầu thì ổn, nhưng rồi luyện sai, bị bùa phán.
Tưởng chết rồi, mai sao gặp được ông. Thiệt là ông bà độ quá chừng. Vậy chú giết người rồi, sao còn đi báo công an. Không sợ hả. Sợ chứ.
Tao sợ bị bắt muốn chết. Tối đó sau khi giết ba người ở Gò Mã, tao xóa hết dấu vết, vứt xác xuống sông, giấu cái bao vàng ở chỗ khác. Tao muốn công an tưởng tao bị điên nói bậy bạ.
Tất cả đều có tính toán mà. Ông giết người rồi đổ hết lên đầu tôi. Để bây giờ tôi đi đâu cũng bị người đời khinh miệt hết.
Mày là quỷ. người ta nguyền rũa mày thì có gì lạ. Tao là quỷ, nhưng chưa từng giết ai. Tối đó tao thấy hết.
Mày chặt đầu ba người, dùng ngải iếm dầu sát để cho tà khí ám lên thân họ. Mày muốn mấy thầy Pháp như ông Sáo nghĩ là ma làm. Tao muốn cản, nhưng mà mày dùng bùa quỷ hồn đánh tao.
Tao mất nửa hồn phách, phải ăn gà dịch ba ngày mới gom lại được đó. Ả ta quay sang ông Sáo, giọng nghẹn nghẹn. Tôi chưa từng xin ai điều gì.
Nhưng lần này ông làm ơn giúp tôi minh quang đi. Tôi chết một lần rồi, không muốn lúc chết cũng bị nguyền rủa. Ông Sáo nhìn ả hồi lâu, rồi gật đầu.
Ông quay lại phía ông hai, mắt đục như tro tàn. Hai à, tới nước này rồi. Thôi buông đi.
Mày cứ chạy theo thứ hạnh phúc không có thật. Trên đời có tình yêu nào mà đổi bằng mạng người chứ. Ông hai cúi đầu, vai rung rung.
Tôi biết là tôi sai, nhưng tôi đâu còn đường lui. Ấn sát địa đã ăn vào máu rồi. Ngưng lại tôi sẽ chết, bị hút khô máu thịt.
Tôi không muốn biến thành cái sát nằm giữa ruộn. Cá đình lặn đi, gió cũng ngưng. Ông Sáo khẽ thở dài.
Thôi, đủ rồi. Ông lấy ra một lá bùa đỏ, đưa lên ánh trắng, miệng lầm rầm niệm chú. Ông hai chợt hiểu chuyện gì sắp tới, quay người định bỏ chạy.
Nhưng không kịp. Lá bùa lóa lên ánh chớp, phóng tới, nổ tung trên ngực ông hai. Mày còn đứng đó làm gì. Trối ông lại, dải lên xã đi.
Dạ, dạ, dạ. Ông đực cố la, con làm liền mà. Sau một hồi lúng túng như gà mắc tóc, thằng đực mới trối được ông hai bằng dây chuối.
Ông hai ngồi thợp dưới đất, dây trói siết ngang cổ tai đã xước. Trăng lặn, gió không buồn lây nhánh bạc ở cuối sân đình. Nhưng trong ông, cái rối rắm quặn lên từng hồi, giống như có ai thắt nút lòng ông mà quên buông tay.
Ông sống chừng ấy năm, chưa từng có một cái tên để ai đó gọi mà dịu dàng. Mấy chục cái tết, ăn cơm nguội, ngó thiên hạ nói cười, tự dưng nghe lạnh như nằm giữa sân đình. Cái lạnh đó không buốt da, nó ăn mòn dần dần, cười ít lại, nói ít lại, rồi nhìn người ta thương nhau cũng thấy chướng mắt.
người trong xóm ai cũng có đôi có cặp, người xấu xí cũng cưới được vợ, người cọc cằn cũng có con gọi ba. Còn ông, vẫn một mình một mái nhà lợp mái tôn đã rỉ sét từ đời nào. Có bữa, ông thấy người ta bưng cháo cho chồng bị cảm, chỉ một muỗng đưa lên thôi, mà lòng ông dậy lên thứ thèm thuồng như chó đói.